Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009

TÙNG THIỆN VƯƠNG

Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819 - 1870) tự Thận Minh, Trọng Uyên, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử. Ông là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, và là em vua Thiệu Trị đồng thời là một nhà thơ Việt Nam thời nhà Nguyễn.

Tiểu sử

Tùng Thiện Vương, sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Ngợn[1]. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Miên Thẩm.

Năm lên bảy tuổi, Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường, được thầy Thân Văn Quyền[2] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới 8 tuổi (1827), nhân theo hầu vua dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao thi, rất được tán thưởng.

Năm 1839, ông được phong Tùng Quốc Công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế.

Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, Nguyễn Phúc Trinh Thận tức nữ sĩ Mai Am và Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm.

Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện Công.

Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường.

Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy (sử cũ gọi là giặc Chày Vôi) nhằm lật đổ vua Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội.

Vua Tự Đức không kết tội chỉ nói ông chọn rễ không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm. Suốt tám năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày.

Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (30 tháng 4 năm 1870) hưởng dương 51 tuổi.

Năm 1878, ông được vua Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận Vương.

Năm 1929 , vua Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương, tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.

Tác phẩm

Sự nghiệp trước tác của Tùng Thiện Vương rất phong phú (14 tập). Trong số đó đáng kể là Thương Sơn thi tập, gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm chính: Thương sơn thi tập, Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di vv...

Nhận xét chung

Theo như trong tập Thơ Tùng Thiện Vương[3], vào giữa thế kỷ 19 tại kinh thành Phú Xuân (Huế) đã xuất hiện một số nhà thơ dòng dõi hoàng tộc Nguyễn Phúc, trong đó có Tùng Thiện Công (tước vị của Miên Thẩm lúc bấy giờ), Nguyễn Phúc Miên Trinh, Nguyễn Phúc Miên Bửu, công chúa Mai Am (tất cả đều là em của ông) được nhiều người biết hơn cả.

Ông sống trong một giai đoạn lịch sử hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai gây mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn nhưng theo quy chế nhà Nguyễn, các ông hoàng không được đi thi, ít được tham gia chính sự nên khó xác định được tài năng thật sự của ông trong các lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị, quân sự v.v...).

Tùng Thiện Vương nổi tiếng về thơ, do đó đương thời có câu truyền tụng: ”...Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Và cũng chính ông cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương được người đời lúc bấy giờ xưng tụng là “Tam Đường”.

Và sinh thời, ông là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng; không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) mà ông là “Tao đàn nguyên suý” tập họp được nhiều danh sĩ, trong đó có cả Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát v.v. Về văn nghiệp, ông là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy, được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức, nhờ duyệt thơ và được nhiều nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao [4]

Cao Bá Quát, một nhân tài thời ấy, cũng là người cách biệt với ông về tầng lớp xuất thân, địa vị xã hội; khác về khuynh hướng lẫn đường đời nhưng hai người lại là đôi bạn thân thiết. Khi họ Cao bị giam cầm, ông là người duy nhất dám làm thơ khen là "cây tùng cây bá". Lúc Cao Bá Quát bị bắt đi hiệu lực ở Giang Lưu Ba (Indonexia), cũng chính ông là người duy nhất dám tỏ tình nhớ thương. Và ngày họ Cao được trở lại kinh đô, cũng chỉ mỗi mình ông dám "rút kiếm" vì bạn hát một khúc bi ca.

Trong bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Tùng Thiện vương, Cao Bá Quát đã viết:

"...Tôi theo Quốc công chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía nam...đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ Hà Thượng của quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác..."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét