Lãnh Binh Thăng tên thật là Nguyễn Ngọc Thăng (1798-1866) là một võ tướng nhà Nguyễn, thuộc thế hệ tham gia chiến đấu chống Pháp đầu tiên của Bến Tre và của Nam Kỳ.
Tiểu sử
Đền thờ Lãnh Binh Thăng tại Mỹ Thạnh, Bến TreLãnh Binh Thăng, sinh quán tại ấp Giồng Keo, làng Mỹ Thạnh, huyện Tân An, (nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre) trong một gia đình nông dân, nhưng nhờ từ miền Trung vào lập nghiệp đã lâu nên khá giả.
Cha ông tên Nguyễn Công, mẹ là Trần Thị Kiếm. Thuở nhỏ, ngoài việc chăm học chữ Nho, ông còn hăng say luyện tập võ nghệ.
Đến khi đủ tài lực, ông đứng ra chiêu mộ dân để khai khẩn đất đai, lập đồn điền vùng Bảo Hựu (Bến Tre)
Dưới thời Thiệu Trị, ông gia nhập quân đội, được thăng cai cơ, đến năm 1848 (Tự Đức nguyên niên), ông được thăng chức lãnh binh.[1]
Binh nghiệp
Mờ sáng ngày 1 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1858), năm Tự Đức thứ 11, quân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng. Sau 5 tháng giao tranh, quân Pháp vẫn bị cầm chân ở nơi đấy. Theo lệnh của tướng Pháp tên Rigault de Genouilly, hai phần ba số lính Pháp kéo vào tấn công thành Gia Định.
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp đổ bộ, nã đại pháo và dùng chất nổ đánh thủng cửa Đông thành. Quân Pháp dùng thang cao leo vào, pháo của quân Việt từ trên thành bắn xuống, nhưng không mấy hiệu quả… Nhận được tin dữ, Lãnh Binh Thăng đem binh từ Thủ Thiêm đến cứu viện, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành Gia Định đã bị đối phương chiếm lấy, sau khi hai bên giáp mặt đánh nhau rất ác liệt.
Thành mất, hộ đốc trấn giữ thành là Võ Duy Ninh và án sát Lê Từ tuẫn tiết. Nghe tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế phái thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp mang 1500 quân vào đóng ở Biên Hòa, còn Lãnh Binh Thăng được lệnh vẫn đóng giữ vùng Chùa Cây Mai[2] Tại đây, ông cho củng cố đồn lũy, nhưng do vũ khí của Pháp quá mạnh nên chỉ sau một thời gian cầm cự, ông cũng phải bỏ đồn.
Sau khi chiếm được thành Gia Định và hạ xong đại đồn Chí Hòa, Pháp xua quân tiến đánh Định Tường, vì đây là cửa ngõ của vựa lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất nhượng ba tỉnh là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn cho Pháp. Vua Tự Đức xuống chiếu dụ kêu gọi bãi binh. Không đồng tình, Trương Định vẫn ở lại Gò công để tiếp tục kháng Pháp.
Khi ấy, Lãnh Binh Thăng cũng đã rút quân về Gò Công. Kể từ đây, ông tiếp tục chiến đấu chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Trương Định. Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ đánh úp bản doanh. Trương Định bị trọng thương và ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công), để bảo toàn khí tiết vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864.
Dù bị tổn thất lớn, nhưng Lãnh Binh Thăng vẫn cùng với các nghĩa quân quyết tâm chiến đấu, chứ không chịu qui hàng.
Hy sinh
Vào ngày 27 tháng 6 năm 1866, tức ngày rằm tháng 05 năm Bính Tuất, trong một trận giao chiến dữ dội với quân Pháp tại “Đám lá tối trời”[3], ông bị trúng đạn, tử thương. Lợi dụng đêm tối, các thuộc hạ trung thành đã dùng ghe đưa thi hài ông về nơi quê hương tại Mỹ Lồng và quàn tại đình làng suốt 30 ngày, để nhân dân gần xa đến tỏ lòng tiếc thương, phúng viếng...
Nghe tin ông mất, vua Tự Đức có phong sắc, áo, mão và một thanh gươm. Do chiến tranh, những di vật này đặt tại ngôi miếu thờ ông ở ấp Giồng Keo bị hư hỏng và thất lạc.[1]Mộ Lãnh Binh Thăng hiện ở tại ấp Giồng Keo, làng Lương Mỹ, tổng Bảo Thành (nay là ấp Căn Cứ, xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre).
Ghi công từ hậu thế
Tại thị xã Bến Tre từ năm 1955 đã có con đường mang tên đường Lãnh Binh Thăng. Và hiện nay, ở thành phố Hồ Chí Minh cũng có một con đường, một ngôi chợ, một cây cầu mang tên hoặc chức vụ của ông (cầu Ông Lãnh, chợ cầu Ông Lãnh).[4]
Đình làng Nhơn Hòa (Cô Bắc, quận 1, TP. HCM) và tại đình làng Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm đều thờ Lãnh Binh Thăng. Hàng năm đến kỳ quí tế, hai nơi nói trên đều có tổ chức lễ tưởng niệm rất trọng thể. Đình thờ và khu mộ của ông đã dược Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là Khu Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Thứ Ba, 23 tháng 6, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét