Tuy Lý Vương, húy Miên Trinh, tự là Khôn Chương và Quý Trọng, hiệu là Vỹ Dạ và Tỉnh Phố, sinh năm Kỷ Mão 1820, là con thứ 11 của vua Minh Mạng và là con đầu lòng của bà Tiệp Dư Lê Thị Ái.
Ngài được mẹ chăm lo dạy dỗ từ thuở nhỏ, lại thông minh hiếu học nên vua cha rất yêu mến. Lúc Tuy Lý Vương mới 6 tuổi, bị cảm sốt, vua đến thăm, mọi người trong cung cho là Tuy Lý Vương có số khác thường, vì thời ấy việc vua đi thăm con cái là chuyện hiếm có. Tuy Lý Vương có khiếu về thơ. Năm 13 tuổi, làm thơ đã giỏi, được người ta gọi là Ông Hoàng Thơ. Là người con hiếu thảo, hồi còn trẻ, mỗi khi mẹ bị bệnh, Ngài được vào Dưỡng Chính Đường để hầu hạ. Ngài rất cẩn thận, tự mình nếm thuốc trước khi cho mẹ uống. Năm Đinh Mùi 1847, Ngài xây phủ riêng ở Vỹ Dạ, rước mẹ về phụng dưỡng. Sáng và chiều, mỗi ngày hai buổi đều đến hầu mẹ và thường tìm cho được của ngon vật lạ để dâng mẹ. Mỗi buổi chiều, Ngài thường đội khăn đen, mặc áo rộng, đứng khoanh tay hầu mẹ, nhìn mẹ rải thức ăn cho đàn quạ và đọc kinh. Quạ là một loài chim rất có hiếu. Khi chim quạ già yếu, chim con đi kiếm mồi về rồi mớm cho chim cha, chim mẹ ăn.
Năm Tân Hợi 1851, vua Tự Đức thiết lập Tôn Học Đường để dạy cho các công tử, công tôn và giao cho Tuy Lý Vương trông coi. Bấy giờ Ngài đã ngoài 30 tuổi mới ra làm việc. Năm 1868, mẹ mất, Ngài xin từ chức về cư tang. Ngài có khắc một bài biểu trên bia, trước mộ mẹ là Lê Thị Tiệp Dư, kể công đức mẹ, lời lẽ thống thiết, thật chí hiếu. Đến năm 1878, Ngài được phong là Tuy Lý Quận Vương. Tuy Lý là tên một huyện ở phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận. Dưới triều Nguyễn, vua thường phong tước cho các công thần hay thân thích của nhà vua bằng những địa danh.
Năm Quý Mùi 1883, vua Tự Đức mất, để di chiếu cho ông cùng Thọ Xuân Vương giúp việc nước, có gì không đúng phải nói thẳng. Cùng trong năm này, Sùng Biện Nội Các Hồng Sâm, con thứ sáu của Tuy Lý Vương muốn loại trừ Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vì hai ông này chuyên quyền, đã giết vua Dục Đức, nhưng việc bại lộ, bị buộc uống thuốc độc tự tử, Tuy Lý Vương và các con bị đày đi an trí tại Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Mãi đến 1885, Tuy Lý Vương mới được cùng các con trở về Thuận Hóa. Ngài tiếp tục phục vụ dưới các triều vua Đồng Khánh, Thành Thái cho đến khi mất vào năm Đinh Dậu 1897, hưởng thọ 79 tuổi.
Sự nghiệp văn chương của Tuy Lý Vương gồm có những bài thơ bằng chữ Nôm và chữ Hán, đặc biệt là bộ "Vỹ Dạ Hợp Tập" viết bằng chữ Hán được tiến sĩ Vương Tiên Khiêm, giám đốc trường Quốc Tử Giám ở Bắc Kinh đề tựa. Trong Vỹ Dạ Thi Tập," Tuy Lý Vương đã sáng tác nhiều bài về tình bạn bè, tình anh em, tình vợ chồng, tình yêu thiên nhiên, lòng yêu tổ quốc...
Tuy Lý Vương có rất nhiều bạn tài hoa, nổi danh và thường cùng nhau xướng họa thơ. Trong số bạn này có ông Nguyễn Văn Siêu và Phan Thanh Giản. Thơ văn của các ông có lời lẽ cao đẹp nên đương thời có câu:
"Văn như Siêu Quát vô tiền Hán.
Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường."
Có nghĩa là:
Văn như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát thì đoạt cả văn đời tiền Hán.
Thơ như thơ Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương thì lấn cả thơ thời thịnh Đường.
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là con thứ 10 của vua Minh Mạng và bà Thục Tân Nguyễn Thị Bảo, anh khác mẹ với Tuy Lý Vương. Năm Canh Tuất 1850, nhân dịp Nguyễn Văn Siêu trở về miền Bắc. Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương tổ chức tiệc tiễn đưa người bạn tri kỷ, cũng giống như Bạch Cư Dị, đưa khách ở bến Tầm Dương. Tuy Lý Vương đãi tiệc tại chiếc thuyền trên con sông Phân Giang ở phía Đông Nam thôn Vỹ Dạ. Trước cảnh trời nước bao la, người đi kẻ ở ngậm ngùi cho cuộc chia ly. Tùng Thiện Vương cho mời Đẩu Nương ở An Cựu xuống thuyền gảy đàn Nam Cầm cho khách nghe. Đẩu Nương là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, đã từng nổi danh với tiếng đàn Nam Cầm. Đàn Nam Cầm là tổng hợp đàn Tranh, đàn Sắt, và đàn Tỳ Bà làm một. Tiếng đàn Nam Cầm rất thanh, hơn cả đàn Tranh. Chồng nàng mất sớm, để cho nàng phải chịu lẻ loi, sống một cuộc đời hiu quạnh. Nay vì quá nể Tùng Thiện Vương nên nàng không dám từ chối, góp tiếng lòng mình trong buổi tiễn đưa. Sau khi nghe tiếng đàn Nam Cầm ai oán, bi đát và lời thuật chuyện não nùng của Đẩu Nương, Tuy Lý Vương cảm xúc, tự ví mình như Bạch Cư Dị ngày xưa và lúc về nhà cảm hứng làm bài Nam Cầm Khúc ngay đêm ấy. Sau đây là đoạn tả tiếng đàn ai oán não nùng và tâm sự Đẩu Nương:
Bốn dây to nhỏ cung sa
Thoắt như trời đổ một vài giọt mưa
Lạnh nghe hạc nói năm xưa
Thảm nghe Thục Đế khóc đưa xuân về
Muỗng sen giọt nước đầy ve
Thú vàng lửa đốt khói che hơi trầm
Gió mai bờ quạnh ve ngâm
Còn phơi bông trắng, lau dầm màu sương ...
Dùng dằng nổi tiếng biệt ly
Sầu riêng chẳng rõ việc gì gì đây?
Lầu tiên đã lỡ kiếp này
Cầu Ô để nợ còn chầy về sau
Trước sau lắm kiếp tình sâu
Tơ tầm một mốt buộc sầu không lơi
Lục Triều Tam Sở đổi đời
Nước non, hoa cỏ xót lời tao nhân
Hồng Sâm dịch
Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét