Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009

TRẦN QUANG DIÊU

Trần Quang Diệu (1746–1802) là võ tướng quan trọng nhất của nhà Tây Sơn thời vua Cảnh Thịnh. Ông và vợ là Bùi Thị Xuân nằm trong số những tướng lãnh trung thành cuối cùng đã chiến đấu để bảo vệ sự tồn tại của triều Tây Sơn.

Sự nghiệp

Giai đoạn trước khi Nguyễn Huệ qua đời
Trần Quang Diệu tham gia phong trào Tây Sơn từ những ngày đầu. Ông được coi là một trong Tây Sơn thất hổ tướng.

Trong chiến thắng Kỉ Dậu 1789, Quang Diệu được biên chế trong đạo trung quân do Nguyễn Huệ chỉ huy.

Sau chiến thắng này, ông là Đốc trấn Nghệ An, làm nhiệm vụ trấn thủ Nghệ An và xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô.

Tại thời điểm Quang Trung qua đời, ông là Thiếu phó.


[sửa] Giai đoạn sau khi Nguyễn Huệ qua đời
Năm 1792, Quang Trung băng hà, Quang Diệu cùng Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Tư đồ Vũ Văn Dũng lập Nguyễn Quang Toản (khi này 10 tuổi) lên ngôi, tức vua Cảnh Thịnh. Sau đó, ông đêm quân đóng ở xứ Lào và quản lí, chế ngự các tiểu vương và tù trưởng ở đấy.
Năm 1793, Quang Diệu về nước và trấn thủ Quảng Nam. Hay tin quân chúa Nguyễn xâm nhập, ông đưa quân đánh với ý định chiếm lại thành Diên Khánh. Nguyễn Phúc Ánh đưa đại binh đi cứu viện, ông thua.
Năm 1795, Quang Diệu một lần nữa xuất quân chiếm lại Diên Khánh. Khi chiến sự đang giằng co với lợi thế thuộc về quân Tây Sơn thì có triều biến tại Phú Xuân: không có lệnh vua, Vũ Văn Dũng và Nguyễn Văn Huấn lập mưu giết Ngô Văn Sở và cha con Thái sư Bùi Đắc Tuyên . Quang Diệu vội thu quân về triều, đóng quân ở mạn Nam sông Hương, hướng mặt vào thành Phú Xuân, trong khi Vũ Văn Dũng đóng ở mạn Bắc sông và muốn đem quân cự lại. Nguyễn Văn Huấn ra tạ tội. Cảnh Thịnh hòa giải hai bên, hặc tội và giết Nguyễn Văn Huấn. Mâu thuẫn giữa Văn Dũng và Quang Diệu được thu xếp ổn thỏa.
Năm 1799, Quy Nhơn bị Nguyễn Phúc Ánh đánh ngặt, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng vào cứu. Do quân lệnh không nghiêm, quân của Văn Dũng thất lợi. Nghe lời gièm, vua Cảnh Thịnh viết mật thư, lệnh cho Văn Dũng trừ Quang Diệu đi. Văn Dũng không nghe, tin cho Quang Diệu biết. Trần Quang Diệu tức tốc về triều, nói là để bắt quân phản loạn, Cảnh Thịnh giao lại những người gièm pha.
Khi này, nhà Tây Sơn đã không còn thực lực vững vàng như ngày trước: Cảnh Thịnh giết oan Lê Tung và Nguyễn Văn Huấn; một số tướng như Lê Chất bỏ sang với Nguyễn Phúc Ánh; sự ủng hộ của nhân dân đối với nhà Tây Sơn giảm sút, nhân dân không còn coi họ như những người đại diện của mình.

Năm 1800, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cùng vào đánh Quy Nhơn. Tướng Nguyễn là Võ Tánh giữ vững không ra đánh. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, chia quân vây bốn mặt; Vũ Văn Dũng đem thủy quân ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt pháo để phòng ngự quân Nguyễn cứu viện. Nguyễn Phúc Ánh đem đại quân ra cứu Quy Nhơn, các tướng Nguyễn phá tan thủy quân Tây Sơn ở Trận Thị Nại. Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại lên bộ hợp quân với Trần Quang Diệu. Quân Tây Sơn vây thành càng ngặt.[2]

Nhận thấy hai tướng giỏi nhất và tinh binh Tây Sơn tập trung cả ở Quy Nhơn, Võ Tánh viết thư khuyên chúa Nguyễn đừng vội lo giải vây, mà hãy ra đánh Phú Xuân trước. Nguyễn Phúc Ánh nghe theo, đến tháng 5 âm lịch năm 1801, thủy quân Nguyễn ra đánh chiếm được Phú Xuân.[3] Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân thất thủ, sai tướng đem quân về cứu, nhưng đến Quảng Nam thì bị chặn lại phải quay về. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng càng dốc quân đánh thành Quy Nhơn. Trong thành hết lương thực, Võ Tánh đưa thư cho Trần Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại."[4] Võ Tánh chất rơm cỏ dưới lầu Bát Giác tự thiêu, hiệp trấn Ngô Tòng Châu cũng uống thuốc độc tự tử, thành Quy Nhơn đầu hàng. Trần Quang Diệu vào thành, sai làm lễ liệm táng cho hai người tử tế, và tha cho tướng sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai. Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú Yên nhưng đều thất bại.

Quân Tây Sơn chiếm lại được thành Quy Nhơn nhưng các mặt đều là địch cả, bị cô lập khó bề chống giữ. Tháng 3 âm lịch năm 1802, nghe tin vua Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân thua trận ở Trấn Ninh (tháng giêng âm lịch năm 1802), Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Lào ra Nghệ An để hội quân với vua Cảnh Thịnh. Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất Hương Sơn thì thành Nghệ An đã thất thủ, Trần Quang Diệu và vợ là Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương. Lúc này, quân của Trần Quang Diệu đã tan rã cả, tướng của Nguyễn Phúc Ánh dùng mưu mua chuộc người chỉ điểm nơi trú ẩn của gia đình của Trần Quang Diệu. Ông và vợ con đều bị bắt.

Hy Sinh

Nguyễn Phúc Ánh – khi này đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long, chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp:

“ Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu. “
Mẹ ông – đã ngoài 80 tuổi – được Gia Long tha chết, còn Quang Diệu thì bị đem làm tội. Về cái chết của Trần Quang Diệu, thông tin là không thống nhất:

Có thuyết nói do ông thờ mẹ già 80 tuổi có hiếu nên vua Gia Long chỉ ra lệnh chém, chứ không hành hình dã man như một số người khác. Tuy vậy, thuyết này không nói rõ ông bị chém ra sao và khiến người đọc có thể nghĩ là ông bị chết chém bình thường.
Có thuyết nói ông bị chém làm trăm mảnh. [5]
Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần thì cho rằng ông bị lột da nhồi trấu.

Lưu danh

Tên của ông hiện nay đã được đặt cho một con phố ở Hà Nội (phố Trần Quang Diệu, khu Hoàng Cầu) và nhiều thành phố khác ở Việt Nam. Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho một ngôi trường tiểu học ở Thành phố Hồ Chí Minh, Quận 3, đường Lê Văn Sỹ: trường tiểu học Trần Quang Diệu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét