Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009

TRẦN NGUYÊN HÃN

Trần Nguyên Hãn (?-1429) là võ tướng trong khởi nghĩa Lam Sơn, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đánh thắng quân Minh xâm lược và lập thành nhà Hậu Lê. Ông cũng là một trong những công thần phải chịu cái chết bi thảm ở triều vua Lê Thái Tổ.

Quê quán, dòng dõi và xuất thân

Trần Nguyên Hãn chuyên cư ở xã Sơn Đông, nay thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy vậy, một số học giả đời trước lại có ý kiến khác.

Phạm Đình Hổ[1] và Nguyễn Án trong sách Tang thương ngẫu lục, Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược và Phan Kế Bính đều cho rằng Trần Nguyên Hãn là người Hoắc Xa, huyện Quảng Oai, Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Trần Xuân Sinh bác lại ý trên. Ông nói rằng mình từng tới xã Hoắc Xa (còn được gọi là Vân Xa), nhưng dân xã này thờ Trần Khát Chân và họ - dân xã này – cũng không biết gì về Trần Nguyên Hãn cả. Từ luận cứ trên, tác giả này cho rằng Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược và Phan Kế Bính đã dựa vào Tang thương ngẫu lục mà lầm theo.[2]
Trần Nguyên Hãn là dòng dõi tôn thất nhà Trần, là cháu (miêu duệ) của Thái sư Trần Quang Khải, là cháu nội Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Ông là con cô con cậu (qua cát) hoặc anh em con cô con bác đối với Nguyễn Trãi.

Khác với các chú bác ruột là con đẻ của Trần Nguyên Đán[3], Trần Nguyên Hãn không theo nhà Hồ hay nhà Minh. Sau khi quân Minh xâm chiếm Việt Nam, ông thường gánh dầu đi bán khắp nơi. Mục đích của việc này, theo nhận định của nhiều sử gia, là để kết giao và móc nối với những người có khả năng và ý định chống giặc. Nhưng một số người khác cho rằng không phải vậy và dựa vào chi tiết này để kết luận rằng ông là con nhà lao động. Phan Kế Bính trong Nam Hải dị nhân cũng cho rằng Trần Nguyên Hãn xuất thân lao động.

Cũng có tài liệu nói rằng Trần Nguyên Hãn từng đảm nhận một chức quan nhỏ của nhà Hồ ở lộ Tam Giang[4] và đã từng tổ chức, chiêu tập binh lính đánh quân Minh ở vùng quê nhà, có liên lạc được với một số thủ lĩnh người Mường, Thái cũng như đánh thông được tới vùng Đại Từ của cha con Lưu Trung, Lưu Nhân Chú và Phạm Cuống [5

Sự nghiệp

Gia nhập quân Lam Sơn
Năm 1420 (hoặc 1423), Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi về với Lê Lợi. Tuy vậy, về việc này, có nhiều thông tin khác nhau.

Theo Gia phả họ Đinh kể về thân thế Đinh Liệt, một tướng quân tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khác: Tới xuân năm 1423, trong khi Lê Lợi phái Phạm Văn Xảo đi tìm Nguyễn Trãi ở Đông Quan thì Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn - khi này mang hai tên giả lần lượt là Trần Văn và Trần Võ tới chỗ Lê Lợi (khi này đang ở Lỗi Giang). Tuy vậy, ban đầu Nguyễn Trãi chỉ được giao làm Ký lục quân lương, Trần Nguyên Hãn thì chở thuyền do phía Lam Sơn chưa rõ lai lịch của hai người mới tới. Chỉ sau khi Nguyễn Trãi dâng "Bình Ngô sách" thì Lê Lợi mới nhận ra học vấn, khả năng của hai ông và trọng dụng.

Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng ông và Nguyễn Trãi " ra mắt " Lê Lợi tới 2 lần: lần đầu, hai ông đến và bỏ về sau khi thấy Lê Lợi xé thịt bằng tay và đưa lên mồm ăn ngay trong ngày giỗ. [6] Lần thứ hai, hai ông mới ở lại sau khi thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư. Một số tài liệu khác thì chép hai ông định bỏ về (sau đó vẫn ở lại) khi thấy Lê Lợi xé thịt ăn bằng tay.

Chức vụ và khen thưởng

Trong hàng ngũ các quan văn võ dưới quyền Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn luôn là viên quan cao cấp nhất.

Khoảng năm 1424-1425, Trần Nguyên Hãn là Tư đồ. Khi này, trong phong trào khởi nghĩa, Tư đồ là chức quan cao nhất.

Năm 1427, sau chiến tích hãm Đông Quan, ông được phong là Thái úy.

Năm 1428, kháng chiến thành công và Lê Lợi lên ngôi, Trần Nguyên Hãn được gia phong Tả Tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự, Khu mật Đại sứ, được cấp 114 mẫu ruộng[18]. Người được phong “Hữu Tướng quốc“ là Lê Tư Tề, con cả của Lê Lợi và chức Thái úy về tay Phạm Văn Xảo.

"Đại sứ" là chức quan to nhất của Khu mật viện, trong viện này, Trần Nguyên Hãn là cấp trên trực tiếp của Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi kiêm nhiệm nhiều chức vụ, nhưng trong Viện Khu mật, ông chỉ là Hành Khu mật viện sự). "Bình chương quân quốc trọng sự" là hàm (hoặc chức vụ, nhưng có lẽ là hàm [19] dành riêng cho đại thần, Nguyên Hãn không phải viên quan duy nhất được phong tặng. Một số đồng môn khác của ông cũng mang danh hiệu này trong cùng khoảng thời gian hay muộn hơn một chút như: Lưu Nhân Chú, Lê Sát, Phạm Vấn (từ năm 1428), Lê Văn An (từ năm 1432)... Quan trọng nhất trong các chức tước của ông là “Tả tướng quốc“ - chức vụ có quyền năng tương tự với “đồng Thủ tướng Chính phủ“ ngày nay. Như vậy, Nguyên Hãn cũng đã là người đứng đầu các quan như ông nội (hoặc cụ nội) mình là Trần Nguyên Đán. Khi trước, Trần Nguyên Đán được phong Đại Tư đồ [20], một chức vụ cũng tương tự như “Thủ tướng“ trong hệ thống hành chính đời Trần mạt.

Hy Sinh

Năm 1429, Trần Nguyên Hãn xin về trí sĩ. Từ trước đó, Nguyên Hãn có nói riêng với người thân cận:

“ Nhà vua có tướng như Việt vương Câu Tiễn, cho nên, ta không thể yên hưởng vui sướng được. ”


(Câu Tiễn có tướng cổ dài, mép quạ, tức là tướng chim. Có thuyết cho rằng Trần Nguyên Hãn trực tiếp nói câu này với Nguyễn Trãi.)

Lê Lợi y cho Nguyên Hãn được về, nhưng dặn rằng cứ một năm hai lần lại vào triều chầu vua. Trần Nguyên Hãn “thập đạo kinh luân mao ức lý, nhân cựu trạch tử miếu” (sau mười năm chiến chinh, quay về ngôi nhà cũ). Ở đây, ông cho dựng phủ đệ lớn, đóng thuyền to. Việc này bị quy kết là lộng hành và có âm mưu thoán nghịch. Những kẻ không ưa cũng thừa cơ buông lời xúi bẩy. Trần Nguyên Hãn bị Lê Lợi ra lệnh bắt về triều để xét hỏi. Tới bến Sơn Đông, ông tự trầm mình mà chết. Trước khi chết, ông nói:

“ ...Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân, nay sự nghiệp lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm mà hại tôi. Hoàng thiên có biết không?[21] ”


Tháng 5 năm đó, Lê Lợi mới tiến hành ban thưởng tước hầu cho các công thần tham gia khởi nghĩa. Như vậy Trần Nguyên Hãn chưa kịp nhận phong thưởng của một chiến tướng khó nhọc đã bị vua hãm hại.

Di lụy và phục hồi

Quanh cái chết của Trần Nguyên Hãn, không chỉ riêng vợ con ông chịu dính líu mà các tướng như Bế Khắc Triệu, Nông Đắc Thái cũng bị liên lụy. Hai tướng này bị cho là vây cánh của Trần Nguyên Hãn và bị dẹp.

Năm 1455 [22], vua Lê Nhân Tông (1443-1459) ra lệnh phục chức cho Trần Nguyên Hãn, truy phong là "Phúc thần", cho gọi con cháu ra làm quan, nhưng không ai ra.[23]

Đời nhà Mạc, ông được truy phong là Tả tướng quốc, Trung liệt Đại vương[24]. Ông chính là trường hợp rất hiếm trong các công thần khai quốc nhà Lê được nhà Mạc thù địch tưởng nhớ và truy phong, có lẽ một phần lý do vì bản ý nhà Mạc muốn thu phục lòng người. Việc tôn vinh ông khiến "thiên hạ" thấy sự khắc bạc của nhà Lê với người có công trạng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét