Tôn Thất Hiệp (1653 - 15 tháng 6 năm 1675) tên thật là Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phước Thuần. Ngoài ra, theo Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, ông còn có tên là Nguyễn Phúc Chiểu. (dẫn lại theo Phật giáo Đàng trong, tr. 82) là con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, là Nguyên soái trong trận đánh nhau với quân Trịnh vào năm 1673, là nhà sư trụ trì chùa Minh Thiện thuộc dinh Thái Khang..
Tôn Thất Hiệp, con thứ tư (Việt Nam sử lược ghi Tôn Thất Hiệp là em thứ tư của chúa Hiền là sai) của chúa Hiền, sau vì kỵ húy nên đổi là Hiệp. Mẹ là Hoàng hậu Châu Thị Viên.
Chưa biết ông sinh tại đâu, chỉ biết khi vừa trai tráng, ông được cử giữ chức Chưởng cơ tước Hiệp Đức Hầu, nên còn được người đời gọi là công tử Hiệp Đức.
Năm Canh Tuất 1670, chúa Trịnh Tạc sai sứ vào Đàng Trong đòi nộp thuế. Chú Hiền không chịu nộp, nên tháng 6 dương lịch năm 1672, chúa Trịnh cử Trịnh Căn làm Nguyên soái, cai quản thủy quân và tướng Lê Thời Hiến (hay Lê Hiến) làm Thống suất bộ binh, đem 10 vạn quân nhưng phao tin là 18 vạn quân vào đánh chúa Nguyễn. Ngoài ra, chúa Trịnh Tạc còn hộ giá vua Lê Gia Tông khi ấy mới 12 tuổi, theo sau tiếp ứng.
Khi nghe viên Trấn thủ Nam Bố Chính cấp báo, chúa Hiền họp triều thần chọn Nguyên soái để chỉ huy quân chống lại. Các tướng đồng đề nghị Tôn Thất Hiệp, vì cho rằng tuy ông còn trẻ, chưa đầy 20 tuổi, chưa từng ra trận lần nào, nhưng là người có trí dũng, đáng được giao trọng trách ấy. Chúa Hiền chấp thuận, đồng thời cử thêm Vệ úy Mai Phúc Lãnh và Ký lục Võ Phi Thừa theo giúp việc cho con.
Vào khoảng tháng 9-10 dương lịch 1672, quân Trịnh Căn đến Nam Bố Chính.
Sau ba tháng dài dò xét, hăm dọa, tố cáo chúa Nguyễn không phục tùng nhà Lê; Trịnh Căn thử tấn công vào lũy Đồng Hới, rồi đưa đoàn chiến thuyền đến sông Gianh và sông Nhật Lệ để chờ đổ bộ.
Biết tình thế ấy, Tôn Thất Hiệp cho đắp thêm lũy Trấn Ninh, bố trí thêm súng thần công và cấp báo với Hiền Vương.
Tháng 1 dương lịch 1673, Lê Thời Hiến xua quân tấn công lũy Trấn Ninh nhưng bị thua khiến Trịnh Tạc nổi giận, nghiêm phạt các quan quân bại trận.
Được tăng cường thêm lính, Lê Thời Hiến mở cuộc tấn công thứ hai rất mãnh liệt...Chỉ trong vòng một ngày chiến đấu, lũy Trấn Ninh bị phá nhiều chỗ và đôi bên đã giằng co, chiếm qua chiếm lại từng khu vực một.
Nao lòng, tướng nguyễn tên Trương Phúc Cang toan bỏ lũy, qua cố thủ bên này sông Lê Kỳ nhưng Tôn Thất Hiệp không đồng ý, e tổn hại cho sĩ khí ba quân.
Sau khi toan tính, Tôn Thất Hiệp sai quân phi ngựa đến lũy Sa Kỳ, truyền cho lão tướng Nguyễn Hữu Dật phải tức tốc qua lũy Trấn Ninh cứu khổn.
Nhận lịnh ấy, Nguyễn Hữu Dật lạnh lùng trả lời: “Ta chỉ lo gìn giữ lũy Sa Phụ nầy mà thôi. Ngay từ hồi đầu chiến trận, ta không được ai chia sớt trách nhiệm nào ở lũy Trấn Ninh cả. Ta không dám đi!”
Trong bài viết Ông Hoàng Hiệp và trận giặc 1673 nhà văn Sơn Nam suy đoán, đại để là:
Phải chăng Nguyễn Hữu Dật bất mãn khi thấy mình bị bố trí ở cánh quân không quan trọng? Hiền Vương không còn tín nhiệm đầy đủ nơi Dật?
Hai mươi mấy năm về trước, Hữu Dật đã một phen bị tình nghị “thông đồng với Chúa Trịnh” nhơn đó bị giam. Sau Hiền Vương tha tội, đuổi Dật về làm văn chức... để theo dõi tư tưởng, Sách lược “liên lạc với địch để tìm hiểu rồi ly gián địch” đã được Hữu Dật áp dụng đem nhiều kết quả có lợi cho sự nghiệp Đàng Trong, nhưng mấy ai chịu hiểu giùm. Dầu muốn hay không, Dật thấy sự nghiệp tinh thần của mình bị sụp đổ, sau 50 năm phò chúa, bằng xương bằng máu (từ hồi Sãi Vương còn sống).
Câu trả lời trong giây phút bất mãn, nhưng sau đó Nguyễn Hữu Dật liền hối hận. Và ông chạy nhanh lên lũy Sa Phụ, đứng quan sát thực tế của chiến trận. Bên kia sông, súng thần công nổ vang rền, khói bốc mịt trời che lấp lũy Trấn ninh. Chắc chắn Lê Thời Hiến chiếm ưu thắng và tướng sĩ Đàng Trong đang đại bại ở ngay mặt trận chánh.
Ông dư hiểu: Nếu mình không đi cứu viện thì Tôn Thất Hiệp phải đi cứu viện, và liệu vị nguyên soái quá trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm ấy có đủ sức ứng phó?
Nghĩ vậy, Hữu Dật tức tốc lên yên, kéo quân đến Trấn Ninh, dọc đường, ông cẩn thận vạt vỏ viết vào thân cây mấy chữ tóm tắt: ''Hữu Dật đã qua cứu viện lũy Trấn Ninh, xin hoàng tử (Tôn Thất Hiệp) đến giữ lũy Sa Phụ đang bỏ trống''.
Đọc tin ấy, Tôn Thất Hiệp qua giữ lũy Sa Phụ và rồi đánh tan được đội thuyền tuần tiểu trên sông Nhật Lệ của Tham đốc Thắng.
Ở mặt trận Trấn Ninh, khi lão tướng đến được nơi ấy thì trời đã tối đen như mực. Trước cảnh binh sĩ lớp chết, lớp bị thương, số còn lại chiến đấu gần như tuyệt vọng, ông ra lịnh gom nhánh cây, cỏ khô, đốt lên sáng rực. Biết có viện binh đến, quân Trịnh không dám tiến. Suốt đêm, Hữu Dật đốc suất quân sĩ tích cực sửa chữa chiến lũy, nhưng trời vừa rạng sáng, Lê Thời Hiến lại tấn công. Quân sĩ Đàng Trong chống trả quyết liệt, cho nên con số bị thương và thương vong của cả hai phía đều tăng lên từng ngày.
Lại gặp lúc gíó bấc thổi mạnh, mưa phùn lê thê, lạnh lẽo hơn bao giờ hết, chúa Trịnh Tạc tự xét thấy không thể thắng nổi, nên cho rút quân về...
Việt Nam sử lược cho biết thêm: Đến tháng chạp, trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh Giang, tức là sông Giang bây giờ mà phân giới hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long. (trích chương: Sự chiến tranh, đánh nhau lần thứ bảy)
Làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài chết trận, thả tù binh xong; tháng 4 dương lịch 1673, Tôn Thất Hiệp về đến Thạch Xá. Chúa Hiền mừng rỡ, khen ngợi, ban thưởng nhiều vàng bạc.
Nhận thưởng, nhưng sau đó Tôn Thất Hiệp từ bỏ gia đình, thế phát xuất gia không chút do dự, tuy mới 20 tuổi.
Sách Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng có đoạn:
Quận Hiệp Nguyễn Phước Chiểu, từ sau cuộc chến tranh năm Nhâm Tý (1672) kéo quân về Nam (Phú Xuân), trong lòng mộ đạo Phật, đi du lãm không sót một danh lam thắng cảnh nào. Quận Hiệp dựng một tòa am nhỏ tại xã Khách Quán, ở một mình ăn chay, thường đốt hương, tụng kinh niệm Phật.
Sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong chép:
Theo tài liệu của chùa Minh Thiện ở núi Bút Sơn, làng Thanh Tuyền, phía Tây dinh Thái Khang (sau chùa dời về ở xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) thì chính Tống Phước Hiệp, là Tổ khai sơn chùa Minh Thiện (Chùa được Tôn Thất Hiệp cho xây dựng và hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 năm Giáp Dần 1674.) và khi ấy ông có pháp danh là ''Giác Sanh Thiền Hòa Tử.''
Sau thời gian hoằng hóa ở chùa này, ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão (ngày 6 tháng 8 năm 1675), nhà sư Giác Sanh Thiền Hòa Tử viên tịch, được chúa Hiền ban thụy hiệu là Tịnh Đức Phổ Chiếu Hoà thượng.
Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm:
Khi chỉ huy chiến trận, ông hoàng Hiệp sống khắc khổ, ngồi trong trại, chỉ có hai vệ sĩ túc trực bên cạnh. Lần nọ, một lão già ở Quảng Bình tên Bật Nghĩa đến trại với ý định “tiến” cho ông hòang một thiếu nữ xinh đẹp. Ông hoàng từ chối nhưng không quên cấp cho lão già 10 quan tiền, hiểu rằng người cha nọ hành động như vậy chỉ vì quá túng thiếu cơm áo, thời loạn.
Ông liễu đạo năm 23 tuổi (1653 – 1675), ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão, an táng ở làng Hiền Sĩ, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, có lẽ không lưu lại một bút tích, một bài thơ truyền khẩu nào. Nhưng hậu thế tưởng còn nhận được hình bóng bất diệt của ông qua nụ tười phảng phất trên môi của các tượng Bồ Tát trong chùa, giữa tiếng kệ kinh.
Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét