Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009

ÔNG ÍCH KHIÊM

Ông Ích Khiêm (1829 - 1884[1]) có tự là Mục Chi, là danh tướng dưới thời vua Tự Đức, Việt Nam.

Thân thế và sự nghiệp

Ông Ích Khiêm[2] sinh ngày 21 tháng 12 năm Mậu Tý (1829) tại làng Phong Lệ, tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là làng Phong Lệ Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.

Tổ tiên Ông Ích Khiêm vốn là người dân tộc miền núi xuống định cư làm ruộng ở miền xuôi. Cha ông là Ông Văn Điều và mẹ là Võ Thị Cốt. Sinh ra trong một gia đình nông dân đông con, gồm 8 trai 5 gái, ông Khiêm là người con thứ tư sau ba chị gái, nhưng lại là người con trai đầu.

Thuở nhỏ, vừa chăn trâu cắt cỏ, vừa theo học với người chú là Ông Văn Trị. Ông thông minh, chăm học nhưng cũng rất nghịch ngợm. Khi lớn lên, ngoài tài gồm văn võ, ông còn nổi tiếng là người chính trực, là một vị tướng khẳng khái, mưu lược, biết thương yêu quân sĩ.

Mưới sáu tuổi, Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (Đinh Mùi, 1847) trong khoa thi hương ở Bình Định, nhờ sự sáng suốt của quan chủ khảo Vũ Duy Thanh (1807-1859). Ông Thanh đã quyết cho đỗ với lời phê: Bài này tuy lời văn không được chải chuốt, chữ viết xấu nhưng ý tứ dồi dào. Qua bài này, ta thấy thí sinh phải là người có lòng yêu dân thương nước cao, có chí ngang tàng, có lòng cương trực thì mới viết được như thế.[3]

Đậu cử nhân, ông được bổ làm tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mưu đồ tiến chiếm Việt Nam vào ngày 01 tháng 9 năm 1858, ông được gọi ra cầm quân dưới tướng Nguyễn Tri Phương bảo vệ thành Đà Nẵng và lo củng cố các đồn trại như đồn Nhất ở đèo Hải Vân, đồn Liên Trì, Phong Lệ và đắp lũy từ Hải Châu đến Phước Ninh...

Từ năm 1861 đến năm 1865, Ông lo đàn áp cuộc Khởi nghĩa Lê Duy Phụng ở vùng Hải Ninh .

Năm Tự Ðức thứ 16 (1864), dư đảng của Hồng Tú Toàn là Ngô Côn chạy sang Việt Nam, trước xin hàng, sau đem tàn quân cướp phá các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Năm 1868, Ngô Côn chiếm Cao Bằng. Triều đình sai quan thống đốc Phạm Chi Hương viết thư sang cho nhà Thanh nhờ giúp. Vua nhà Thanh sai phó tuớng Tạ Kế Quí, đem quân sang cùng với Ông Ích Khiêm và phó đề đốc Nguyễn Viết Thành đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất Khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân Việt bị thua ở Lạng Sơn, Phạm Chi Hương bị bắt, tham tán Nguyễn Lệ và Nguyễn Viết Thành đều tử trận,

Cuối năm 1870 Ngô Côn xua quân vây đánh tỉnh thành Bắc Ninh, quân của Ông Ích Khiêm liền đem quân chống trả, diệt đuợc Ngô Côn.

Thuộc hạ của Ngô Côn là Hoàng Sùng Anh hiệu Cờ Vàng, Lưu Vĩnh Phúc hiệu Cờ Đen, Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi hiệu Cờ Trắng, vẫn cứ quấy phá ở Tuyên Quang, Thái Nguyên. Triều đình sai quan trung quân Đoàn Thọ ra làm Tổng thống quân vụ ở Bắc kỳ.

Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh thành Lạng Sơn, bị Tô Tứ (người Hoa) nổi lên, nửa đêm chiếm lấy thành, Võ Trọng Bình chạy thoát, Ðoàn Thọ bị giết chết.

Tin dữ về đến Huế, Vua Tự Ðức phong cho Ông Ích Khiêm chức tiểu phủ sứ[4], dưới quyền của Tôn Thất Thuyết, phối hợp cùng Hoàng Kế Viêm cấp tốc mang quân đi đánh dẹp...

Năm 1875, Tôn Thất Thuyết và ông mới diệt được quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh ở Sơn Tây.

Năm 1878, Ông Ích Khiêm lại diệt được Lý Dương Tài (người Hoa) ở hồ Ba Bể thuộc Bắc Kạn.

Do nhiều công lao, vua Tự Đức phong cho ông tước Kiên Trung Nam.

Tháng 7 năm 1883, ông được giao trấn giữ cửa biển Thuận An để bảo vệ kinh thành Huế. Trước thế lực mạnh của quân Pháp, ông không thể làm tròn trách nhiệm nên bị cách chức đi tiền quân hiệu lực. Sau nhờ lập được công nên vua cho nhận lại phẩm hàm cũ.

Thời gian làm quan ở kinh, ông tỏ ý không phục hai quan phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nên bị họ trù dập và hãm hại[3]. Ông bị đày vào nhà lao Bình Thuận, làm một người tù khổ sai. Uất ức, ông nhịn đói mà chết.[5]

Theo gia phả, Ông Ích Khiêm mất ngày 19 tháng 7 năm 1884 tại Bình Thuận, thọ 56 tuổi.

Mộ phần và con cháu

Ông Ích Khiêm mất, con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa cha về mai táng ở làng Phong Lệ. Đến năm Bảo Đại thứ 13 (1938) thi hài ông được cải táng về Gò Mô (Đà Nẵng).

Ngôi mộ ông được xây theo hình bát giác, phía trước có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm thạch, cao 0,83m, rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét