Sương Nguyệt Anh (8 tháng 3 năm 1864 - 9 tháng 1 năm 1922), tên thật Nguyễn Ngọc Khuê[1], là nhà thơ và là chủ bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo bà phụ trách là Nữ giới chung, tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn.
Tiểu sử
Mộ nữ sĩ Sương Nguyệt Anh tại Ba Tri, Bến TreNữ sĩ Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Ngọc Khuê[1]. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh. Bà sinh ngày 8 tháng 3 năm 1864 tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, mẹ là Nguyễn Thị Điền, người Cần Giuộc (Long An) trong gia tộc thường gọi bà là Năm Hạnh[3].
Thuở nhỏ, bà cùng người chị thứ tư tên Nguyễn Thị Kim Xuyến , được cha là Đồ Chiểu truyền dạy chữ Hán. Cả hai chị em đều rất thông minh, giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Lớn lên, nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị Kiều.
Năm 1888, Sương nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Một ông tri phủ đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang lòng oán hận, tìm cách hãm hại. Bà phải cùng gia đình người anh chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một phó tổng sở tại góa vợ tên Nguyễn Công Tính [4], sinh được một gái tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi, thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống.[5].
Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang Nhật du học.
Năm 1917, Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ Nữ Giới Chung nghĩa là tiếng chuông của nữ giới. Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1 tháng 2 năm 1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội.[6] Nhưng dù ngòi bút của Sương nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại, tháng 07 năm 1918, tờ Nữ Giới Chung bị đình bản.[7] Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà tên Nguyễn Thị Vinh [8], vừa sinh nở xong, ngã bệnh qua đời.
Hết khóc mẹ, khóc cha, khóc chồng, lại phải khóc con cộng với việc viết lách rất lao tâm, khiến đôi mắt của bà thường xuyên đau nhức và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hòa (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm (tác giả truyện Phấn Trang Lầu) để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù lòa hẳn.
Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm ngày 12 tháng chạp năm Tân Dậu (tức 9 tháng 1 năm 1922), Sương Nguyệt Anh trút hơi thở cuối cùng, lúc 58 tuổi (ghi theo bia mộ).
Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau (năm 1959) được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.
Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét