Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009

PHAN VĂN ĐẠT

Phan Văn Ðạt (1827-1861) tự là Minh Phủ, là một nho sĩ có khí tiết, là một lãnh đạo có khí phách trong phong trào kháng Pháp vào cuối thế kỷ 19 tại miền Nam Việt Nam.

Cuộc đời

Phan Văn Ðạt, người người thôn Bình Thanh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).

Cha ông là Phan Văn Mỹ, thuộc thành phần nông dân nghèo. Vì vậy, ngay từ thuở nhỏ, ông đã phải sống trong cảnh cơ cực. Nhưng nhờ ham học, Phan Văn Đạt sớm làu thông kinh sử, thư từ.

Năm Canh Thân (1860) dưới thời vua Tự Ðức, ông thi đỗ cử nhân tại Gia Định. Khổ nỗi, Nguyễn Thông (1827-1884) kể, ông không có tiền đi nhận chức quan, phải nhờ đến bạn giúp. Nhưng khi ra đến kinh đô Huế, thì ông lại bỏ về.

Và cũng theo Nguyễn Thông, thì ngày "mẹ chết, ông không chôn cất được, tôi (Nguyễn Thông) phải báo tin với các bạn thân giúp tiền, mới có tiền làm lễ tống táng được tử tế". Và khi "vợ mất sớm, tự mình ông phải làm việc kim chỉ vá may, rồi ở góa mãi không lấy vợ khác..."[1]

Tháng Ba năm Tự Đức thứ 14 (1861), cha ông mất. Chôn cất cha, gửi gắm đứa con gái nhỏ xong; còn lại một mình, ông bùi ngùi nói: Việc riêng của tôi thế là xong. Từ nay về sau, tôi sẽ tùy theo tạo hóa vần xây.[2]

Ngày 25 tháng 2 năm 1861, Ðại đồn Chí Hòa thất thủ. Tướng Nguyễn Tri Phương bị trọng thương. Tán lý Nguyễn Duy, Tán tương Tôn Thất Trĩ đều tử trận. Quân Việt phải rút về cố thủ ở Tân Bình (tức tỉnh lỵ tạm thời của Gia Ðịnh) và Biên Hòa.

Trước tình cảnh ấy, Phan Văn Đạt cùng với người cậu bên ngoại là Trịnh Quang Nghi[3] chiêu mộ trai tráng, rồi chia nhau đóng giữ ở phía nam Biện Kiều[4], chuẩn bị đánh Pháp.

Viên chỉ huy[5]quân Pháp ở Tân An dò la biết được, mang quân đi đánh úp. Phan Văn Đạt cùng tám nghĩa binh bị bắt sống. Phần Trịnh Quang Nghi, khi ấy đang đóng quân ở đồn Ô Khê[6], cũng bị quân Pháp ập bắt, nhưng ông chống trả được và kịp thu tàn quân tháo chạy về An Giang. Hôm ấy là ngày 16 tháng 7 năm 1861.

Quân Pháp bắt được ông, dù nghe dụ dỗ hay nhận cực hình, ông cũng không hề chịu khuất phục hay khiếp sợ. Khi dò biết Phan Văn Đạt là một “hiệt kiệt nhất trong đảng”[7], ông bị Pháp bắn chết, khi mới 33 tuổi.

Một người đàn bà họ Trịnh (chị Trịnh Quang Nghị) đi tìm thân xác Phan Văn Đạt mang về, chôn ở phía nam Biện Kiều, là nơi ông đã khởi binh.

Triều đình nhà Nguyễn nghe việc ấy, truy tặng ông hàm Tri phủ, ban cho em ông tên là Thanh, hàm Bá hộ và ban lệnh đợi khi hòa bình sẽ lập miếu thờ, mỗi năm sẽ cấp tiền làm lễ cúng tế.

Hiện nay ở quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, có một con đường mang tên ông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét